Gà là gì? Tìm hiểu các giống gà và đặc điểm của chúng

Gà hay gà đồi, gà nhà được con người thuần hoá hàng nghìn năm trước từ một loài chim đã. Một số người có ý kiến cho rằng loài này có nguồn gốc từ gà rừng lông đỏ Đông Nam Á và các loài chim hoang dã từ Ấn Độ. Với 24 tỷ cá thể, gà là loài vật thịnh hành nhất trong giới chim (thống kê năm 2003). Trứng gà, lông gà, thịt gà được người dân sử dụng thường xuyên. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu ngày nay tiến hành thí nghiệm trên gà trong các lĩnh vực sinh học, vật lý và hóa học.

Đặc điểm của các loài gà

Gà được xếp vào nhóm động vật ăn tạp. Chúng thường xuyên bới đất trong tự nhiên để tìm kiếm hạt cây, côn trùng, thằn lằn hoặc chuột non. Tùy thuộc vào giống, gà có thể sống từ năm đến mười năm. Sách kỷ lục Guinness liệt kê tuổi thọ 16 năm của con gà mái là già nhất thế giới. Bộ lông sặc sỡ, đuôi dài, bóng và lông nhọn trên cổ và lưng, thường có màu sáng hơn và sẫm hơn, giúp phân biệt gà trống với gà mái. Tuy nhiên, gà trống có cùng màu với gà mái ở một số giống gà, chẳng hạn như gà Sebright, ngoại trừ lông cổ hơi nhọn. Dựa vào mào gà hoặc sự phát triển của cựa ở chân gà trống, có thể phân biệt gà trống với gà mái. Gà trưởng thành cũng có yếm thịt bên dưới mỏ trên cổ. Mặc dù gà trống và gà mái đều có mào và cơ bụng, nhưng ở hầu hết các giống gà trống có nhiều khả năng có những đặc điểm này. Ở một số giống gà, đột biến dẫn đến một phần lông dưới đầu của gà giống râu của đàn ông.

Đối với những cá thể gà trọng lượng nhẹ có thể bay được những quãng ngắn trong tầm thấp chẳng hạn như bay qua bụi cậy hay qua hàng rào. Tuy nhiên thì hầu hết các giống gà nhà đều thuộc nhóm chim đào bới nên khả năng bay xa sẽ không thể có được như nhóm chim bay với có thể được cấu tạo đầy đủ các bộ phận thích nghi với tập tính trên không. Khi dò xét xung quanh hoặc chạy trốn nguy hiểm, gà thỉnh thoảng bay thành từng chập.

Tìm hiểu chi tiết về giống gà Ayam Ketawa

Các giống gà phổ biến nhất hiện nay

Nói một cách khoa học, gà rừng đỏ (Gallus gallus), là tổ tiên của loài gà được lai tạo rộng rãi nhất hiện nay, thuộc cùng một loài. Nghiên cứu di truyền gần đây đã chỉ ra rằng lai tạo với gà rừng lông xám dẫn đến ít nhất gen da vàng ở gà (G. sonneratii). Encyclopdia Britannica (2007) mô tả truyền thống chăn nuôi gia cầm như sau: “Ở tiểu lục địa Ấn Độ, người ta thuần hóa gà đầu tiên với ý định nuôi gà chọi ở Châu Á, Châu Phi và Châu Phi. Việc chăn nuôi lấy trứng và lấy thịt ít được quan tâm chính thức.” Nhiều nghiên cứu di truyền đã được tiến hành trong mười năm qua. Theo nghiên cứu của một nhóm các nhà khoa học Nhật Bản, những con gà được thuần hóa ở Thái Lan ngày nay rất giống với các giống gà hiện có.

Tuy nhiên, sau đó người ta phát hiện ra rằng nghiên cứu dựa trên dữ liệu không chính xác. Tiểu lục địa Ấn Độ, nơi có một số lượng lớn các haplotypes riêng biệt, là nguồn gốc của những con gà có nhánh ở Châu Mỹ, Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi. Gà rừng, còn được gọi là “gà tre” trong nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á, là một loài gà lôi đã tiến hóa để tận dụng lượng trái cây dồi dào được sản xuất trong giai đoạn cuối của một chu kỳ sinh trưởng kéo dài. Tre trong 50 năm để tăng khả năng sinh sản Theo Daniel H. Janzen từ Đại học Pennsylvania, con người đã lợi dụng khả năng sinh sản của gà khi chúng có nhiều thức ăn khi thuần hóa gà.

Năm 1988, người ta tuyên bố rằng gà đã được thuần hóa ở khu vực Nam Trung Quốc vào năm 6000 trước Công nguyên trên cơ sở các giả thuyết về cổ khí hậu. Nhưng một nghiên cứu năm 2007 cho thấy “Không biết những con chim này đã đóng góp bao nhiêu cho sự phát triển của gà nhà hiện đại. Nền văn minh Thung lũng Indus, phát triển rực rỡ từ năm 2500 đến năm 1100 trước Công nguyên ở vùng đất ngày nay là Pakistan, có thể là nhân tố chính trong toàn cầu lây lan của gà.” Gà được vận chuyển đến Lưu vực Tarim ở Trung Á thông qua một con đường hướng về phía bắc.

Các giống gà phổ biến nhất hiện nay

Khoảng năm 3000 trước Công nguyên, gà đã đến châu Âu (Rumani, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và Ukraine). Mãi về sau, khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, gà mới được du nhập vào Tây Âu. Dọc theo biển Địa Trung Hải, người Phoenicia đã mang gà đến bán đảo Iberia. Đế chế La Mã đã chứng kiến ​​sự bùng nổ trong chăn nuôi gà, nhưng thời Trung Cổ chứng kiến sự suy giảm. Ở Syria đã từng phát hiện dấu tích gà có niên đại hơn 2000 năm trước Công nguyên. Sự di chuyển duy nhất của gà về phía nam được ghi lại trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Khoảng năm 1400 trước Công nguyên, chúng đến Ai Cập để tham gia vào ngành công nghiệp chọi gà, và dưới thời Ptolemy của Ai Cập, chúng được nuôi rộng rãi (khoảng năm 300 trước Công nguyên). Liên quan đến sự xuất hiện của gà ở Châu Phi, rất ít thông tin được biết đến.

Ba khả năng tồn tại giải thích cho việc gà đến châu Phi trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên: (1) qua Thung lũng sông Nile ở Ai Cập, (2) thông qua thương mại Đông Phi với người Hy Lạp-La Mã hoặc với Ấn Độ, và (3) từ Carthage và người Berber qua Xa-ha-ra. Bằng chứng sớm nhất có từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên và đến từ Mali, Nubia, Bờ biển phía Đông và Nam Phi. Tuy nhiên, loại gà đẻ trứng màu xanh lam chỉ được tìm thấy ở Châu Mỹ và Châu Á, điều này cho thấy rằng Châu Á là nguồn gốc của những con gà đầu tiên ở Châu Mỹ. Vẫn còn tranh cãi liệu gà nhà có tồn tại ở Châu Mỹ trước khi người Châu Âu xâm chiếm lục địa này hay không.

Việc tạo một bản đồ mô tả sự phân bố của gà ở Thái Lan, Nga, Đông Nam Á, tiểu lục địa Ấn Độ và châu Phi cận Sahara là một thách thức do thiếu dữ liệu từ các quốc gia này; Nghiên cứu trong các lĩnh vực này có thể được hưởng lợi từ các mô tả và phân tích di truyền chính xác hơn về các giống gà có nguy cơ tuyệt chủng.

Một số giống gà trong nước và trên thế giới:

  • Gà giống nội gồm: Gà Ri, Gà Nòi, Gà Tàu vàng, Gà Tò, Gà Đông Tảo, Gà chín cựa, Gà Hồ, Gà đồi
  • Gà giống ngoại gồm: gà Tam hoàng, Gà Liên Minh; Gà Lương Phượng, Gà Hyline, Gà Hubbard (Hu-bat), Gà Lơ-go, Gà Ai Cập
  • Gà Trung Quốc còn được gọi là gà trọc đầu, gà thải loại
  • Gà Hàn Quốc hay còn được gọi là gà thải loại, gà thải Hàn Quốc, gà dai/dai bọng, gà Sla

Những tập tính của loài gà

Gà là loài sinh sống, tụ tập tành đàn khi tuân theo các tập quán sống chung, sinh sản và ấp trứng. Những chú gà con sẽ tìm nơi trú ẩn dưới đôi cánh của mẹ chúng nếu chúng gặp nguy hiểm.

Bằng cách cạnh tranh để giành thức ăn, nơi giao phối và nơi làm tổ, gà trong đàn sẽ tạo ra một cấu trúc thứ bậc (dựa trên nguyên lý “mạnh thắng, yếu thua”). Hệ thống trật tự này tạm thời bị gián đoạn khi một thành viên mạnh mẽ trong đàn bị mất, sau đó là việc thiết lập một trật tự mới. Việc thêm gà mái vào đàn hiện có, đặc biệt là gà con, có thể gây ra xung đột và gây hại. Con gà trống sẽ “cục cục”, nhặt mồi, thả nó xuống và sau đó ra hiệu cho những con gà khác ăn trước khi nó tìm thấy nó. Gà mái mẹ cũng thể hiện hành vi tương tự khi ra hiệu cho gà con ăn.

Những chú gà trống thường cất tiếng gáy vào buổi sáng. Tiếng gáy của gà trống, thường to nhưng đôi khi có thể làm giật mình, là tín hiệu lãnh thổ cho những con gà trống khác. Tuy nhiên, con gà trống có tiếng gáy khi giật mình. Khi gọi gà con và sau khi đẻ trứng, gà mái kêu to. Gà cũng có một “tiếng kêu cảnh báo” trầm mà chúng phát ra khi nhận thấy kẻ săn mồi ở gần.

cách chọn gà tre đá hay

Gà mái

Một số gà trống nhảy vòng quanh hoặc đến gần gà mái và hạ thấp cánh gần cô nhất để bắt đầu tỏ tình. Thời điểm gà mái phản ứng, giao phối có thể bắt đầu (gọi là đạp mái).

Nhảy ổ

Gà mái thường đẻ trứng trong những chiếc tổ đã có sẵn trứng và người ta cũng thấy chúng di chuyển trứng từ tổ này sang tổ khác. Hành vi này dẫn đến một đàn gà có ít địa điểm đẻ trứng ưa thích hơn là nhiều ổ. Gà mái thường bày tỏ sự quan tâm đến việc đẻ trứng ở một địa điểm cụ thể. Có thể cố gắng chia tổ cho hai hoặc nhiều con gà cùng một lúc. Những con gà mái sẽ cố gắng nằm chồng lên nhau nếu ổ quá nhỏ hoặc nếu một con gà mái quá quyết tâm bỏ đi. Người ta đã chứng minh rằng gà mái thích làm tổ một mình hoặc theo nhóm. Một số người nuôi gà sử dụng trứng rởm bằng đá hoặc nhựa để dụ gà đẻ trứng ở những nơi không mong muốn.

Gà ấp trứng

Hầu hết gà trong tự nhiên chỉ đơn giản là đẻ đủ một ổ trứng trước khi dừng lại và bắt đầu ấp. Chúng tôi gọi đây là ấp trứng. Ấp nở gà đồi sẽ ngừng đẻ trứng để chỉ tập trung cho trứng nở (một ổ khoảng 12 trứng). Gà hiếm khi rời ổ trong thời gian này để ăn hoặc đi tắm, và chúng sẽ mổ nếu bị giật mình hoặc bị đẩy ra khỏi ổ. Gà mái đảo trứng trong giai đoạn đầu và duy trì độ ẩm và nhiệt độ của tổ.

Trứng sẽ nở vào cuối thời kỳ ấp kéo dài khoảng 21 ngày. Mặc dù thời gian đẻ có thể kéo dài đến hai tuần, nhưng tất cả trứng sẽ nở chỉ sau một hoặc hai ngày vì chúng chỉ phát triển khi được ấp. Trước khi trứng nở, người ta có thể nghe thấy tiếng gà con kêu ríu rít bên trong vỏ của chúng. Gà mái có thể nghe thấy điều này và sẽ nhẹ nhàng cục tác để khuyến khích gà con mổ vỏ. Gà con chọc thủng vỏ trứng để tạo lỗ thở, thường là ở phần trên của quả trứng. Sau đó, gà con sẽ tiếp tục mổ cho đến khi vỏ nứt thành nắp sau khi nghỉ ngơi vài giờ và hấp thụ lòng đỏ trứng còn lại. Chúng chui ra khỏi vỏ và hơi ấm của tổ làm khô bộ lông của chúng.

Sau khi quả trứng đầu tiên nở, gà mái dành khoảng hai ngày trong tổ. Các chất dinh dưỡng mà lòng đỏ trứng chúng hấp thụ ngay trước khi nở sẽ cung cấp thức ăn cho gà con mới nở trong giai đoạn này. Con gà mái rời tổ, bỏ lại những quả trứng chưa nở. Khi cần thiết, gà mẹ sẽ ấp những chú gà con mới nở để giữ ấm cho chúng. Gà mẹ dẫn gà con đến nguồn thức ăn và nước uống. Mặc dù thỉnh thoảng cô ấy cho gà con ăn trực tiếp, nhưng cô ấy sẽ gọi khi tìm thấy thứ gì đó ăn được. Cho đến khi chúng được vài tuần tuổi, gà mẹ vẫn chăm sóc gà con, nhưng sau đó, nó mất hứng thú và tiếp tục đẻ trứng. Ngày nay, việc ấp trứng hiếm khi cần thiết đối với các giống đẻ trứng. Những người vẫn muốn ấp trứng thường bị bỏ lại giữa chừng. Tuy nhiên thì có một số giống gà như Tam hoàng, Cornwall hay gà ác thì lại thường xuyên đòi ấp và đều là những ông bố bà mẹ tuyệt vời. Chúng không chỉ ấp mỗi trứng gà giỏi mà chúng còn ấp được cả các loại trứng nhỏ hơn như trứng của loài chim cút, trứng gà lôi, ngỗng và cả gà tây. Và có khi vịt cũng ấp cả trứng gà.

Gà ấp trứng

Các bệnh thường xảy ra gà

Gà dễ mắc các bệnh khác nhau cũng như ký sinh trùng như phthiraptera, ve, bét,  bọ chét và giun đũa.

Một số bệnh phổ biến ở gà bao gồm:

  • Cúm gia cầm
  • Aspergillosis
  • Histomoniasis
  • Cage Layer Fatigue
  • Botulism
  • Campylobacteriosis
  • Coccidiosis Avium
  • Coccidiosis
  • Cúm
  • Dermanyssus gallinae
  • Chướng diều
  • Chướng trứng
  • Hội chứng xuất huyết gan nhiễm mỡ
  • Erysipelas
  • Bệnh tả ở gà
  • Thương hàn ở gà
  • Đậu mùa ở gà
  • Gallid herpesvirus 1
  • Viên phế quản
  • Giun nĩa
  • Bệnh Gumboro ở gà
  • Bệnh Lơ-cô
  • Sổ mũi truyền nhiễm
  • Bệnh Marek
  • Mycoplasmas
  • Monilia
  • Bệnh Newcastle
  • Omphalitis
  • Necrotic Enteritis
  • Peritonitis
  • Psittacosis
  • Prolapse
  • Salmonella
  • Ung thư biểu mô gai
  • Bệnh sùng chân
  • Bệnh suy sụn xương ống
  • Ulcerative Enteritis
  • Toxoplasmosis
  • Bệnh CRD ở gà
  • Ulcerative pododermatitis

Những thông tin quan trọng về đặc điểm của gà và các giống gà phổ biến ngày nay đã được Dagathomo đề cập ở trên. Bạn cần lưu ý về các đặc điểm và thông tin cần thiết để sự chăm sóc gà được tốt nhất cho dù bạn có đang nuôi gà với mục đích để thịt hay gà chọi.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *